Tổng quan về 6 lý thuyết chính của cảm xúc
Mục lục:
- Cảm xúc là gì?
- Lý thuyết về cảm xúc
- Thuyết tiến hóa của cảm xúc
- Lý thuyết về cảm xúc của James-Lange
- Lý thuyết cảm xúc Cannon-Bard
- Lý thuyết Schachter-Ca sĩ
- Lý thuyết thẩm định nhận thức
- Lý thuyết phản hồi khuôn mặt
Bà mối Cát Tường đắng lòng đôi trẻ BMHH HOANG TƯỞNG VỀ TÌNH YÊU ? (Tháng mười một 2024)
Cảm xúc tác động một lực cực kỳ mạnh mẽ lên hành vi của con người. Những cảm xúc mạnh mẽ có thể khiến bạn thực hiện những hành động mà bạn có thể không thường thực hiện hoặc để tránh những tình huống bạn thích.Tại sao chính xác chúng ta có cảm xúc? Điều gì khiến chúng ta có những cảm xúc này? Các nhà nghiên cứu, triết gia và nhà tâm lý học đã đề xuất các lý thuyết khác nhau để giải thích cách thức và lý do đằng sau cảm xúc của con người.
Cảm xúc là gì?
Trong tâm lý học, cảm xúc thường được định nghĩa là một trạng thái cảm giác phức tạp dẫn đến những thay đổi về thể chất và tâm lý ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi. Cảm xúc gắn liền với một loạt các hiện tượng tâm lý, bao gồm tính khí, tính cách, tâm trạng và động lực. Theo tác giả David G. Meyers, cảm xúc của con người liên quan đến "… kích thích sinh lý, hành vi biểu cảm và kinh nghiệm có ý thức".
Lý thuyết về cảm xúc
Các lý thuyết chính của động lực có thể được nhóm thành ba loại chính: sinh lý, thần kinh và nhận thức. Các lý thuyết sinh lý cho thấy các phản ứng bên trong cơ thể chịu trách nhiệm cho cảm xúc. Các lý thuyết thần kinh đề xuất rằng hoạt động trong não dẫn đến phản ứng cảm xúc. Cuối cùng, các lý thuyết nhận thức cho rằng suy nghĩ và hoạt động tinh thần khác đóng vai trò thiết yếu trong việc hình thành cảm xúc.
Thuyết tiến hóa của cảm xúc
Chính nhà tự nhiên học Charles Darwin đã đề xuất rằng những cảm xúc phát triển bởi vì chúng thích nghi và cho phép con người và động vật sống sót và sinh sản. Cảm giác của tình yêu và tình cảm dẫn mọi người tìm kiếm bạn tình và sinh sản. Cảm giác sợ hãi buộc mọi người phải chiến đấu hoặc chạy trốn khỏi nguồn nguy hiểm.
Theo lý thuyết tiến hóa của cảm xúc, cảm xúc của chúng ta tồn tại bởi vì chúng đóng vai trò thích nghi. Cảm xúc thúc đẩy mọi người phản ứng nhanh với các kích thích trong môi trường, giúp cải thiện cơ hội thành công và sống sót.
Hiểu được cảm xúc của người khác và động vật cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự an toàn và sinh tồn. Nếu bạn gặp phải một con vật rít lên, nhổ nước bọt và vuốt, rất có thể bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng con vật đang sợ hãi hoặc phòng thủ và để nó một mình. Bằng cách có thể diễn giải chính xác màn hình cảm xúc của người và động vật khác, bạn có thể phản ứng chính xác và tránh nguy hiểm.
Lý thuyết về cảm xúc của James-Lange
Lý thuyết James-Lange là một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về lý thuyết sinh lý của cảm xúc. Đề xuất độc lập bởi nhà tâm lý học William James và nhà sinh lý học Carl Lange, lý thuyết cảm xúc James-Lange cho thấy cảm xúc xảy ra là kết quả của phản ứng sinh lý đối với các sự kiện.
Lý thuyết này cho thấy rằng khi bạn nhìn thấy một kích thích bên ngoài dẫn đến phản ứng sinh lý. Phản ứng cảm xúc của bạn phụ thuộc vào cách bạn diễn giải những phản ứng vật lý đó. Ví dụ, giả sử bạn đang đi trong rừng và bạn thấy một con gấu xám. Bạn bắt đầu run rẩy, và trái tim của bạn bắt đầu chạy đua. Lý thuyết James-Lange đề xuất rằng bạn sẽ diễn giải các phản ứng vật lý của mình và kết luận rằng bạn sợ hãi ("Tôi run rẩy. Do đó, tôi sợ"). Theo lý thuyết cảm xúc này, bạn không run rẩy vì sợ hãi. Thay vào đó, bạn cảm thấy sợ hãi vì bạn đang run rẩy.
Lý thuyết cảm xúc Cannon-Bard
Một lý thuyết sinh lý nổi tiếng khác là lý thuyết cảm xúc Cannon-Bard. Walter Cannon không đồng ý với lý thuyết cảm xúc James-Lange trên nhiều lý do khác nhau. Đầu tiên, ông đề nghị, mọi người có thể trải nghiệm các phản ứng sinh lý liên quan đến cảm xúc mà không thực sự cảm thấy những cảm xúc đó. Ví dụ, trái tim của bạn có thể chạy đua vì bạn đã tập thể dục chứ không phải vì bạn sợ.
Cannon cũng cho rằng các phản ứng cảm xúc xảy ra quá nhanh đối với họ chỉ đơn giản là sản phẩm của các trạng thái vật lý. Khi bạn gặp một mối nguy hiểm trong môi trường, bạn sẽ thường cảm thấy sợ hãi trước khi bắt đầu gặp các triệu chứng thực thể liên quan đến nỗi sợ như run tay, thở nhanh và tim đập.
Cannon lần đầu tiên đề xuất lý thuyết của ông vào những năm 1920 và công trình của ông sau đó được mở rộng bởi nhà sinh lý học Philip Bard trong những năm 1930. Theo lý thuyết về cảm xúc của Cannon-Bard, chúng ta cảm nhận được cảm xúc và trải nghiệm các phản ứng sinh lý như đổ mồ hôi, run rẩy và căng cơ đồng thời.
Cụ thể hơn, có ý kiến cho rằng cảm xúc dẫn đến khi đồi thị gửi thông điệp đến não để đáp ứng với một kích thích, dẫn đến phản ứng sinh lý. Đồng thời, não cũng nhận được tín hiệu kích hoạt trải nghiệm cảm xúc. Lý thuyết của Cannon và Bard, cho thấy trải nghiệm về thể chất và tâm lý của cảm xúc xảy ra cùng một lúc và cái này không gây ra cái kia.
Thuyết Cannon-Bard về cảm xúcLý thuyết Schachter-Ca sĩ
Còn được gọi là lý thuyết hai yếu tố của cảm xúc, Lý thuyết Schachter-Ca sĩ là một ví dụ về lý thuyết nhận thức về cảm xúc. Lý thuyết này cho thấy rằng kích thích sinh lý xảy ra đầu tiên, và sau đó cá nhân phải xác định lý do cho sự kích thích này để trải nghiệm và gắn nhãn nó là một cảm xúc. Một kích thích dẫn đến một phản ứng sinh lý sau đó được giải thích nhận thức và được dán nhãn dẫn đến một cảm xúc.
Lý thuyết Schachter và Singer từ rút ra cả lý thuyết James-Lange và lý thuyết cảm xúc Cannon-Bard. Giống như lý thuyết James-Lange, lý thuyết Schachter-Singer đề xuất rằng mọi người thực hiện các cảm xúc dựa trên các phản ứng sinh lý. Yếu tố quan trọng là tình huống và sự giải thích nhận thức mà mọi người sử dụng để gắn nhãn cho cảm xúc đó.
Giống như lý thuyết Cannon-Bard, lý thuyết Schachter-Singer cũng cho rằng các phản ứng sinh lý tương tự có thể tạo ra những cảm xúc khác nhau. Ví dụ, nếu bạn trải qua một trái tim đua xe và lòng bàn tay đổ mồ hôi trong một kỳ thi toán quan trọng, có lẽ bạn sẽ xác định được cảm xúc là sự lo lắng.Nếu bạn trải nghiệm các phản ứng vật lý tương tự vào một ngày với người quan trọng khác của bạn, bạn có thể hiểu những phản hồi đó là tình yêu, tình cảm hoặc kích thích.
Lý thuyết hai yếu tố của cảm xúcLý thuyết thẩm định nhận thức
Theo lý thuyết thẩm định của cảm xúc, suy nghĩ phải xảy ra trước khi trải nghiệm cảm xúc. Richard Lazarus là người tiên phong trong lĩnh vực cảm xúc này, và lý thuyết này thường được gọi là lý thuyết cảm xúc Lazarus.
Theo lý thuyết này, chuỗi các sự kiện trước tiên liên quan đến một kích thích, tiếp theo là suy nghĩ sau đó dẫn đến trải nghiệm đồng thời về một phản ứng sinh lý và cảm xúc. Ví dụ, nếu bạn gặp một con gấu trong rừng, bạn có thể ngay lập tức nghĩ rằng bạn đang gặp nguy hiểm lớn. Điều này sau đó dẫn đến trải nghiệm cảm xúc sợ hãi và các phản ứng vật lý liên quan đến phản ứng chiến đấu hoặc chuyến bay.
Lý thuyết phản hồi khuôn mặt
Lý thuyết phản hồi khuôn mặt của cảm xúc cho thấy rằng các biểu hiện trên khuôn mặt được kết nối với trải nghiệm cảm xúc. Charles Darwin và William James đều lưu ý sớm rằng đôi khi các phản ứng sinh lý thường có tác động trực tiếp đến cảm xúc, thay vì chỉ đơn giản là hậu quả của cảm xúc. Những người ủng hộ lý thuyết này cho rằng cảm xúc được gắn trực tiếp với những thay đổi ở cơ mặt. Ví dụ, những người bị buộc phải mỉm cười hài lòng với chức năng xã hội sẽ có thời gian tốt hơn tại sự kiện so với họ nếu họ cau mày hoặc mang nét mặt trung tính hơn.
Tổng quan về lý thuyết lập trình của lão hóa
Tìm hiểu về các lý thuyết về lão hóa được lập trình, trong đó khẳng định rằng lão hóa là một phần thiết yếu trong sinh học của những người được lập trình vào hệ thống cơ thể của chúng ta.
Lý thuyết và ảnh hưởng của lão hóa đối với các cơ quan của chúng ta
Lão hóa là một quá trình phức tạp mà các nhà nghiên cứu chỉ mới bắt đầu hiểu. Tìm hiểu về nhiều lý thuyết về lão hóa và cách nó ảnh hưởng đến cơ thể chúng ta.
Tổng quan về lý thuyết học tập trong tâm lý học
Các lý thuyết học tập về phát triển tập trung vào các ảnh hưởng của môi trường đối với hành vi như củng cố, trừng phạt và mô hình hóa.