Ocrevus (ocrelizumab) để điều trị bệnh đa xơ cứng
Mục lục:
- Ocrevus là gì?
- Ocrevus trong giai đoạn III Thử nghiệm MS
- Điều trị tái phát MS với Ocrevus
- Điều trị MS tiến triển chính với Ocrevus
- Một từ từ DipHealth
Thuốc Ocrevus 300mg/10ml (thuốc Ocrelizumab) (Tháng mười một 2024)
Kháng thể đơn dòng Ocrevus (ocrelizumab) được FDA phê chuẩn để điều trị cả MS tiến triển chính và tái phát các loại MS. Đây là một bước đột phá lớn của MS, vì hiện tại không có loại thuốc nào khác để điều trị cho những người mắc bệnh tiến triển chính.
Ocrevus là gì?
Ocrevus (ocrelizumab) là một kháng thể đơn dòng được nhân hóa, liên kết có chọn lọc với một phân tử gọi là CD20, nằm trên bề mặt tế bào B (một loại tế bào của hệ thống miễn dịch). Bằng cách liên kết với CD20, số lượng tế bào B bị giảm trong dòng máu của một người.
Vì các tế bào B đóng vai trò trong việc mất vỏ myelin và tổn thương trong bệnh đa xơ cứng, làm cạn kiệt các tế bào B đặc biệt này đã được chứng minh là làm giảm hoạt động của bệnh MS. Điều đó đang được nói, bởi vì Ocrevus chỉ nhắm mục tiêu các tế bào B, các tế bào khác trong hệ thống miễn dịch (như tế bào T) vẫn còn nguyên vẹn, giúp duy trì chức năng miễn dịch của một người.
Ocrevus trong giai đoạn III Thử nghiệm MS
Ocrevus đã được kiểm tra trong ba thử nghiệm pha III để điều trị cả MS tái phát và MS tiến triển chính. Trong hai thử nghiệm, Ocrevus được so sánh với Rebif để điều trị cho những người bị MS tái phát. Vì hiện tại không có thuốc nào được FDA phê chuẩn cho MS tiến triển chính, Ocrevus được so sánh với giả dược trong thử nghiệm đó.
Một chút nhắc nhở trong khi các thử nghiệm pha II kiểm tra sự an toàn và lợi ích của thuốc, các thử nghiệm pha III lớn hơn và so sánh thuốc với tiêu chuẩn của thuốc chăm sóc.
Điều trị tái phát MS với Ocrevus
Trong hai thử nghiệm pha III của những người bị tái phát MS, hơn 1600 người tham gia được chọn ngẫu nhiên để truyền dịch Ocrevus cứ sau sáu tháng hoặc Rebif (interferon beta-1a) ba lần mỗi tuần trong 96 tuần (gần hai năm). Rebif là một mũi tiêm dưới da, có nghĩa là nó được tiêm bên dưới da bằng kim mỏng.
Kết quả cho thấy tỷ lệ tái phát hàng năm thấp hơn ở những người tham gia nhận được Ocrevus thấp hơn 46 đến 47 phần trăm so với những người tham gia nhận Rebif. Ngoài ra, sự tiến triển của tình trạng khuyết tật của người tham gia được đo lường ở cả 12 tuần và 24 tuần bằng thang đo EDSS.
Trong cả hai khung thời gian, những người tham gia nhận Ocrevus có tiến triển khuyết tật thấp hơn so với những người nhận Rebif.
Ngoài ra, có các tổn thương tăng cường gadolinium ít hơn 94 đến 95% trong nhóm Ocrevus so với nhóm Rebif.
Các tác dụng bất lợi trong hai thử nghiệm này bao gồm:
- Các phản ứng liên quan đến truyền dịch trong nhóm Ocrevus (trong hơn một phần ba số người tham gia): như phát ban, đỏ bừng hoặc ngứa
- Nhiễm trùng nghiêm trọng xảy ra ở 1,3% những người trong nhóm Ocrevus và 2,9% trong nhóm Rebif
- Sự phát triển mô mới, bất thường (được gọi là neoplasms) xảy ra ở 0,5 phần trăm những người trong nhóm Ocrevus và 0,2% trong nhóm Rebif.
Điều trị MS tiến triển chính với Ocrevus
Trong một thử nghiệm Ocrevus giai đoạn III ở MS tiến triển chính (PPMS), hơn 700 người tham gia đã nhận được Ocrevus hoặc truyền giả dược mỗi 6 tháng trong ít nhất 120 tuần.
Kết quả cho thấy sau 12 tuần, đã giảm 24% tiến triển khuyết tật được xác nhận ở những người tham gia sử dụng Ocrevus, trái ngược với những người được tiêm truyền giả dược. Vào tuần thứ 24, sự tiến triển khuyết tật được xác nhận đã giảm 25 phần trăm ở những người tham gia dùng Ocrevus.
Ocrevus cũng được tìm thấy để giảm thời gian người tham gia đi bộ 25 feet gần 30% so với truyền giả dược.
Trên MRI não, sau 120 tuần, đã giảm 3,4% tổng khối lượng tổn thương não tăng huyết áp trong nhóm Ocrevus so với tổn thương nhiều hơn 7,4% trong nhóm giả dược.
Về mặt tác dụng phụ, nhóm Ocrevus có nhiều phản ứng liên quan đến truyền dịch, nhiễm trùng đường hô hấp trên và nhiễm herpes miệng. Các phản ứng liên quan đến truyền dịch (như phát ban, ngứa, đỏ bừng và kích thích cổ họng) là phổ biến hơn sau khi truyền đầu tiên và được cải thiện với liều tiếp theo.
Nhiễm trùng nghiêm trọng xảy ra ở 6,2 phần trăm của nhóm Ocrevus và 5,9 phần trăm của nhóm giả dược, rất giống nhau ở cả hai nhóm. Các nhà nghiên cứu đã xác định cẩn thận những gì một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng là một bệnh nhiễm trùng gây tử vong, đe dọa tính mạng, phải nhập viện, dẫn đến tàn tật hoặc can thiệp y tế (như kháng sinh tiêm tĩnh mạch) để ngăn ngừa tử vong hoặc tàn tật.
Thật thú vị khi lưu ý rằng có nhiều khối u trong nhóm Ocrevus (như ung thư vú và da) so với nhóm giả dược. Không rõ tại sao đây là trường hợp và đảm bảo điều tra thêm.
Một từ từ DipHealth
Ocrevus (ocrelizumab) là loại thuốc đầu tiên được FDA phê chuẩn để điều trị MS tiến triển chính, ảnh hưởng đến khoảng 10 đến 15 phần trăm những người bị MS, vì vậy điều này cực kỳ thú vị và hy vọng. Tất nhiên, điều này cũng rất thú vị đối với những người bị tái phát các loại MS, vì nhiều người vẫn tiếp tục bị tái phát mặc dù các phương pháp điều trị MS hiện tại. Ocrevus hiện cung cấp cho họ một lựa chọn khác.
Tất cả điều này đã được nói, điều quan trọng cần nhớ là lựa chọn điều trị MS phù hợp với bạn là một quá trình tinh tế và cá nhân.Ngoài ra, kết quả của ba thử nghiệm trên Ocrevus không dự đoán bạn sẽ đáp ứng với thuốc như thế nào.
Ưu và nhược điểm của phẫu thuật cắt tử cung để điều trị lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung là một lý do phổ biến cho phẫu thuật cắt tử cung nhưng phẫu thuật không cung cấp phương pháp chữa trị. Tìm hiểu lý do tại sao bạn vẫn có thể trải qua cơn đau lạc nội mạc tử cung.
Điều trị nội tiết tố và điều trị lạc nội mạc tử cung
Nhiều loại biện pháp tránh thai nội tiết tố (như Depo Provera, Mirena IUD và thuốc kéo dài chu kỳ) có thể là phương pháp điều trị lạc nội mạc tử cung hiệu quả.
Cắt tử cung để điều trị sa tử cung
Nếu bạn đang cân nhắc phẫu thuật cắt tử cung, hãy tìm hiểu những gì mong đợi từ những phụ nữ đã phẫu thuật cắt tử cung.