Mức độ nhận thức trong y học
Mục lục:
Nhận thức sai lầm về thuốc lá điện tử (Tháng mười một 2024)
Mức độ ý thức (LỘC) là một thuật ngữ y tế để xác định mức độ tỉnh táo, tỉnh táo và nhận thức được xung quanh của một người nào đó. Nó cũng mô tả mức độ mà một người có thể đáp ứng với những nỗ lực tiêu chuẩn để thu hút sự chú ý của người đó. Các thuật ngữ y tế nhất quán mô tả mức độ ý thức của một người giúp đỡ trong giao tiếp giữa các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc, đặc biệt khi mức độ ý thức dao động theo thời gian.
Có nhiều điều kiện y tế và thuốc góp phần vào mức độ ý thức của một người. Đôi khi ý thức bị suy giảm là có thể đảo ngược, trong khi những người khác thì không.
Mức độ ý thức bình thường
Theo định nghĩa y tế, một mức độ ý thức bình thường có nghĩa là một người hoặc tỉnh táo hoặc có thể dễ dàng thức dậy từ giấc ngủ bình thường.
- Ý thức xác định trạng thái mà bệnh nhân tỉnh táo, nhận thức, cảnh giác và đáp ứng với các kích thích.
- Vô thức xác định trạng thái mà bệnh nhân bị thiếu hụt nhận thức và khả năng đáp ứng với các kích thích (chạm, ánh sáng, âm thanh). Một người đang ngủ sẽ không bị coi là bất tỉnh, tuy nhiên, nếu thức dậy sẽ dẫn đến ý thức bình thường.
Giữa hai thái cực này, có một số cấp độ ý thức thay đổi, từ nhầm lẫn đến hôn mê, mỗi cấp độ có định nghĩa riêng.
Mức độ ý thức thay đổi (ALOC)
Mức độ thay đổi hoặc bất thường của ý thức mô tả các trạng thái trong đó một người bị giảm chức năng nhận thức hoặc không thể dễ dàng bị đánh thức. Hầu hết các điều kiện y tế ảnh hưởng đến não và làm suy giảm ý thức khi chúng trở nên nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng, và trạng thái ý thức thay đổi thường báo hiệu một vấn đề y tế nghiêm trọng.
Thông thường, một mức độ ý thức thay đổi có thể xấu đi nhanh chóng từ giai đoạn này sang giai đoạn tiếp theo, vì vậy nó đòi hỏi chẩn đoán kịp thời và điều trị kịp thời.
- Sự nhầm lẫn mô tả sự mất phương hướng gây khó khăn cho việc suy luận, cung cấp tiền sử bệnh hoặc tham gia kiểm tra y tế.Nguyên nhân bao gồm thiếu ngủ, sốt, thuốc men, nhiễm độc rượu, sử dụng ma túy giải trí và trạng thái hậu sản (hồi phục sau cơn động kinh).
- Mê sảng là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả trạng thái nhầm lẫn cấp tính, đặc trưng bởi nhận thức bị suy giảm, đặc biệt là sự chú ý, thay đổi chu kỳ ngủ - thức, tăng động (kích động) hoặc giảm âm (thờ ơ), rối loạn tri giác như ảo giác không có) hoặc ảo tưởng (niềm tin sai lầm), cũng như bởi sự bất ổn của nhịp tim và huyết áp. Nguyên nhân có thể bao gồm cai rượu, thuốc giải trí, thuốc men, bệnh tật, suy nội tạng và nhiễm trùng nặng.
- Vô cảm và buồn ngủ mô tả buồn ngủ nghiêm trọng, bơ phờ và thờ ơ kèm theo sự tỉnh táo giảm. Một bệnh nhân thờ ơ thường cần chạm nhẹ hoặc kích thích bằng lời nói để bắt đầu phản ứng. Nguyên nhân có thể bao gồm các bệnh nặng hoặc nhiễm trùng, thuốc giải trí và suy nội tạng.
- Sự tắc nghẽn là giảm sự tỉnh táo với các phản ứng chậm với các kích thích, đòi hỏi phải kích thích lặp đi lặp lại để duy trì sự chú ý, cũng như có thời gian ngủ kéo dài và buồn ngủ giữa các giai đoạn này. Nguyên nhân có thể bao gồm ngộ độc, đột quỵ, phù não (sưng), nhiễm trùng huyết (nhiễm trùng máu) và suy nội tạng tiến triển.
- Choáng váng là một mức độ ý thức bị suy giảm, trong đó một người chỉ đáp ứng tối thiểu với sự kích thích mạnh mẽ, chẳng hạn như véo ngón chân hoặc chiếu ánh sáng vào mắt. Nguyên nhân có thể bao gồm đột quỵ, quá liều thuốc, thiếu oxy, phù não và nhồi máu cơ tim (đau tim).
- Hôn mê là trạng thái không đáp ứng, thậm chí kích thích. Một người hôn mê có thể thiếu phản xạ bịt miệng (bịt miệng để đáp ứng với thuốc ức chế lưỡi đặt ở phía sau cổ họng) hoặc phản ứng đồng tử (đồng tử thường hạn chế phản ứng với ánh sáng). Nó được gây ra bởi chức năng não bị suy giảm nghiêm trọng, thường là do mất máu nhiều, suy nội tạng hoặc tổn thương não.
Nguyên nhân của những trạng thái ý thức thay đổi này có thể chồng chéo. Ví dụ, giai đoạn đầu của phù não hoặc suy nội tạng có thể gây nhầm lẫn nhưng có thể tiến triển nhanh chóng qua các giai đoạn thờ ơ, khó chịu, choáng váng và hôn mê.
Phân loại hôn mê
Các trạng thái hôn mê và choáng váng cũng có thể được chia thành các cấp độ hoặc phân loại để làm rõ hơn mức độ không đáp ứng của một người. Một số hệ thống đã được phát triển để chuẩn hóa các phân loại này, giúp cải thiện giao tiếp giữa các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và cũng hỗ trợ nghiên cứu. Các hệ thống phân loại được sử dụng phổ biến nhất là Thang đo hôn mê Grady và Thang đo hôn mê Glasgow.
- Các Thang điểm hôn mê tỷ lệ hôn mê từ các lớp từ I đến V. Các điểm được xác định dựa trên trạng thái nhận thức và phản ứng của một người đối với các kích thích, chẳng hạn như phản ứng với tên người được gọi, đau nhẹ và đau sâu. Độ I biểu thị sự nhầm lẫn, trong khi V chỉ ra không có phản ứng với kích thích (hôn mê).
- Các Thang điểm hôn mê sử dụng điểm số để xác định mức độ ý thức, từ 1 đến 15, với 15 là trạng thái ý thức bình thường. Thang đo này tính đến các phản ứng bằng lời nói, động cơ và mắt đối với các kích thích trong việc xác định điểm tổng thể.
Một từ từ DipHealth
Ngoài ra còn có các thuật ngữ tâm lý được sử dụng để mô tả ý thức (nhận thức đầy đủ về ý định của một người), trái ngược với tiềm thức (thường mô tả ý định sâu sắc hơn) và tiền lệ (liên quan đến trí nhớ). Ngoài ra còn có một số lý thuyết và định nghĩa khác về ý thức mô tả các giai đoạn của giấc ngủ, mức độ tự nhận thức và mối quan hệ giữa con người và vật chất. Mặc dù tất cả các định nghĩa này chắc chắn là hợp lệ, chúng không được sử dụng để xác định trạng thái ý thức y tế.
Các giai đoạn nhận thức âm vị học và âm vị học
Hãy xem xét kỹ hơn các giai đoạn nhận thức về âm vị học và âm vị học ở trẻ em, bao gồm các quá trình như trộn âm thanh và bắt chước.
Nhận thức xã hội trong tâm lý học
Nhận thức xã hội là một chủ đề quan trọng trong tâm lý học xã hội tập trung vào cách chúng ta lưu trữ, xử lý và sử dụng thông tin về người khác.
Tầm quan trọng của nhận thức trong việc xác định chúng ta là ai
Nhận thức đề cập đến tất cả các hoạt động tinh thần có liên quan đến việc học, ghi nhớ và sử dụng kiến thức. Tìm hiểu thêm về các quá trình này.