Mô hình y học trong tâm lý học
Mục lục:
- Giả định mô hình y tế
- Việc sử dụng thuốc trong điều trị dựa trên mô hình y tế
- Hóa học não của rối loạn lo âu và ám ảnh
Mì Gõ | Tập 203 : Cô Em Nóng Bỏng (Phim Hài Hay 2018) (Tháng mười một 2024)
Một thuật ngữ được đặt ra bởi bác sĩ tâm thần R.D. Laing, trong Chính trị của gia đình và các tiểu luận khác (1971), một mô hình y tế là một "bộ quy trình trong đó tất cả các bác sĩ đều được đào tạo."
Trường phái tư tưởng của mô hình y tế là các rối loạn tâm thần được cho là sản phẩm của các yếu tố sinh lý. Nói một cách đơn giản, mô hình y tế coi các rối loạn tâm thần là các bệnh vật lý, theo đó thuốc thường được sử dụng trong điều trị.
Khi nói đến bệnh tâm thần, mô hình y tế, được các bác sĩ tâm thần sử dụng rộng rãi hơn các nhà tâm lý học, điều trị các rối loạn này giống như một cái chân bị gãy.
Tuy nhiên, có nhiều trường phái suy nghĩ về mô hình y tế trong thế giới tâm thần học. Những người ủng hộ mô hình y tế thường coi các triệu chứng là dấu hiệu nhận biết của rối loạn thể chất bên trong và tin rằng nếu các triệu chứng được kết nối, nó có thể được mô tả như một hội chứng.
Giả định mô hình y tế
- Phương pháp sinh học của mô hình y tế tập trung vào di truyền, dẫn truyền thần kinh, sinh lý thần kinh, phẫu thuật thần kinh, vv Tâm lý học nói rằng các rối loạn có nguyên nhân hữu cơ hoặc thể chất. Cách tiếp cận cho thấy các điều kiện tinh thần có liên quan đến cấu trúc và hoạt động thể chất của não.
- Các triệu chứng của bệnh tâm thần, chẳng hạn như ảo giác, có thể được phân loại thành hội chứng do bệnh gây ra. Những triệu chứng này cho phép bác sĩ tâm thần đưa ra chẩn đoán và kê đơn điều trị.
Việc sử dụng thuốc trong điều trị dựa trên mô hình y tế
Dựa trên mô hình y tế, bệnh tâm thần nên được điều trị, một phần, như một tình trạng y tế, thường là thông qua việc sử dụng thuốc theo toa.
Thuốc trị bệnh tâm thần thay đổi hóa học não. Trong hầu hết các trường hợp, các loại thuốc này thêm hoặc sửa đổi một hóa chất chịu trách nhiệm cho các vấn đề về tâm trạng, nhận thức, lo lắng hoặc các vấn đề khác. Trong liều lượng chính xác, thuốc có thể có tác động tích cực sâu sắc đến chức năng.
Hóa học não của rối loạn lo âu và ám ảnh
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người mắc chứng rối loạn lo âu, bao gồm ám ảnh, có vấn đề với việc điều chỉnh nồng độ serotonin trong não. Serotonin là một hóa chất hoạt động như một chất dẫn truyền thần kinh. Các chất dẫn truyền thần kinh điều chỉnh các tín hiệu giữa các tế bào thần kinh và các tế bào khác.
Serotonin hoạt động trong não và, trong số những thứ khác, điều tiết tâm trạng.
Mức serotonin quá cao hoặc quá thấp có thể gây ra cả trầm cảm và lo lắng. Do đó, nỗi ám ảnh thường được điều trị bằng một nhóm thuốc chống trầm cảm được gọi là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs).
Thông thường serotonin được giải phóng từ một tế bào thần kinh vào khoảng trống synap giữa các tế bào. Nó được nhận ra bởi tế bào thần kinh thứ hai, sau đó truyền tín hiệu đến não. Các serotonin sau đó được lấy lại bởi tế bào thần kinh đầu tiên.
SSRI ngăn chặn một số serotonin được tái hấp thu. Nó nằm trong khoảng trống synap để tiếp tục kích thích tế bào thần kinh thứ hai. SSRIs không phải là thuốc duy nhất được sử dụng trong điều trị ám ảnh nhưng là một trong những cách hiệu quả nhất.
Những gì cần tìm trong một chương trình gia sư hoặc sau giờ học
Con bạn có cần thêm một chút trợ giúp với việc học không? Hãy chắc chắn rằng bạn tìm thấy một gia sư tốt sau giờ học hoặc chương trình cho con bạn.
Tổng quan về lý thuyết học tập trong tâm lý học
Các lý thuyết học tập về phát triển tập trung vào các ảnh hưởng của môi trường đối với hành vi như củng cố, trừng phạt và mô hình hóa.
Nhân rộng trong nghiên cứu tâm lý học là gì?
Nghiên cứu tâm lý cần được nhân rộng để chứng minh tính hợp lệ của nó, nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện các thí nghiệm tương tự với cùng kết quả.